Tham luận của Tiến sĩ Nguyễn Nhã tại Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần 3 (12/2008) -------------------------------------------------------------------------------- Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, Tiến sĩ sử học Hoàn cảnh lịch sử bắt đầu từ năm 1909, Chinh quyền tỉnh Quảng Đông, Trung Hoa cho rằng Hoàng Sa của Việt Nam là đất vô chủ, nên đã có hành động khảo sát, chiếm hữu theo cung cách của Phương Tây, đã không gặp bất cứ phản ứng nào của Việt Nam vì Việt Nam bị mất chủ quyền ngoại giao vào tay người Pháp, trong khi Pháp vốn biết trước ý đồ của chính quyền Quảng Đông, song vẫn không can thiệp ngay vì sợ chủ nghĩa dân tộc “Chauvin” bùng dậy ở Trung Hoa, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Pháp ở Trung Hoa. Tùy theo từng thời kỳ lịch sử từ giai đoạn 1 (1909-1930), giai đọan 2 (1930-1945), giai đoạn 3 (1945-1954), giai đoạn 4 (1954-1975), giai đoạn hiện nay (1975 đến nay), có những hoàn cảnh lịch sử khác nhau, dẫn đến những nguyên nhân tranh chấp khác nhau, tính chất tranh chấp khác nhau, liên tiếp không ngừng cho đến tận ngay nay. Chính đầu thế kỷ XX Việt Nam bị Pháp thuộc, mất hết chủ quyền, trong khi các thế lực bành trướng mới như Nhật sau chiến thắng Trung Nhật (1894-1895) và chiến thắng Nga Nhật (1904-1905) phát triển Chủ nghĩa Đại Đông Á đã dẫn đến chính quyền Quảng Đông e ngại lại lặp lại sự kiện như người Nhật chiếm giữ đảo Pratas mà Trung Hoa đã đặt tên là Đông Sa, bắt đầu hành động chủ động khảo sát Hoàng Sa vì cho Hoàng Sa là đất vô chủ vào năm 1909 là hoàn cảnh cụ thể cũng là nguyên nhân chủ yếu gây ra sự tranh chấp lẽ ra không đáng có, nếu Việt Nam độc lập , không mất chủ quyền vào tay người Pháp. Sau đó vào năm 1921, Chính quyền Nam Trung Hoa đã quyết định sát nhập trái phép Hoàng Sa tức Tây Sa vào tỉnh Quảng Đông. Chính quyền thực dân Pháp vì nhiều lý do trong đó có quyền lợi của Pháp ở Trung Hoa, đã tiếp tục phản ứng quá chậm chạp, mãi sau vài thập niên, đến năm 1930 mới hết do dự. Song khi ấy, Pháp nhân danh nước bảo hộ Annam hay đất thuộc địa đã thực thi chủ quyền chủ yếu bằng sức mạnh quân sự tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đã không đủ tính thuyết phục chấm dứt sự tranh chấp của Trung Hoa, bởi Pháp cũng chỉ là kẻ đi xâm lược mà thôi. Sau đó năm 1938, 1939, Nhật đã chiếm Hoàng Sa & Trường Sa làm bàn đạp chiếm Đông Dương trước khi bùng nổ thế chiến thứ 2. Sau khi Nhật bại trận ở thế chiến thứ 2 (1945) phải từ bỏ sự chiếm đóng Hoàng Sa và Trường Sa. Với những biến động sau Cách Mạng Tháng 8 thành công, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bận lo kháng chiến chống Pháp đô hộ trở lại, Trung Hoa Dân Quốc đã lợi dụng thời cơ tiếp quản nơi Nhật chiếm đóng, vào cuối năm 1946, đã chiếm đóng Hoàng Sa và Trường Sa, song đến năm 1950 đã phải rút hết khỏi Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi hải quân Pháp vẫn làm chủ Biển Đông, và xây dựng chính quyền bù nhìn, quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm quốc trưởng, thực thi chủ quyền nhân danh Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa. Nguyên nhân tranh chấp vẫn không thay đổi, song về chính trị ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc thay đổi, động cơ tranh chấp có khác, nhất là còn vai trò người Pháp ở thế kẻ đi xâm lược, không có khả năng thuyết phục chấm dút sự tranh chấp. Khi Thực dân Pháp rút quân khỏi Việt Nam vào tháng 4/1956 để lại khoảng trống lực lượng bố phòng rồi đến thời chiến tranh chiến tranh lạnh, thế giới chia hai phe: phe Tư bản chủ nghĩa và phe Xã hội chủ nghĩa, Việt Nam bị chia cắt và chiến tranh lạnh cũng như nóng, phải đối đầu, không thể bảo vệ hiệu quả chủ quyền vốn có của mình tại Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi thế giới có nhiều biến động, khiến các nước Trung Quốc, Đài Loan, Philippines trong bối cảnh chiến tranh lạnh ấy đã vội vã chiếm cứ một số đảo tại Hoàng Sa và Trường Sa, tranh chấp với Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam dưới vĩ tuyến 17, được Mỹ bảo trợ. Khi Mỹ ký Thông cáo chung Thượng Hải với Trung Quốc năm 1972 và ký Hiệp Định Paris năm 1973, rút quân ra khỏi Việt Nam, không can thiệp để Trung Quốc chiếm toàn thể Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974. Nguyên nhân tranh chấp đã thay đổi về chất, sự đối đầu trong chiến tranh lạnh, và nhất là trong chiến tranh nóng hai chính quyền Nam Bắc có những đồng minh, đồng chí anh em ủng hộ lẫn nhau trong tranh chấp mang tính quốc tế này. Sau năm 1975, Việt Nam đã thống nhất, thế lực chính trị quốc tế có nhiều biến động ảnh hưởng đến Việt Nam trong đó có việc tranh chấp về Hoàng Sa và Trường Sa vẫn tiếp tục, không những vì vị trí chiến lược vốn có tầm quan trọng lớn lao cũng như tài nguyên nhất là trữ lượng dầu khí tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được cho là có khả năng cao cùng tiềm năng kinh tế cũng là yếu tố dẫn đến những tranh chấp khác nhau không ngừng tại quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa mà từ lâu người Việt cũng như Phương Tây vẫn cho là một dải san hô dài hàng vạn dặm. Từ những hoàn cảnh lịch sử từng thời kỳ trện đã dẫn đến những nguyên nhân, nguyên nhân xa hay nguyên nhân gần; nguyên nhân trực tiếp hay nguyên nhân gián tiếp; nguyên nhân chủ quan, hay nguyên nhân khách quan, phần nào đã nói ở trên, dẫn đến tranh chấp từng thời kỳ. Sự thực lịch sử ra sao và giải pháp? Nguyên nhân chủ yếu là Việt Nam mất chủ quyền vào tay người Pháp để xảy ra sự tranh chấp rất đáng tiếc và rồi chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng, các thế lực quốc tế ảnh hưởng đến sự tranh chấp triền miên. Bây giờ Việt Nam đã được độc lập, thống nhất và làm bạn với tất cả các nước kể cả Trung Quốc, Mỹ, Nga… Các nguyên nhân tranh chấp ngoài kinh tế dầu mỏ không còn nữa, thì cái gì của César phải trả lại cho César. Đã đến lúc các sử gia, các nhà nghiên cứu các nước phải nghiêm túc nhìn vào sự thực lịch sử. Các tư liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã xuất hiện liên tục qua các đời: từ đầu thời Chúa Nguyễn (tức đầu thế kỷ XVII), sang thời Tây Sơn rồi tới triều Nguyễn (từ vua Gia Long), Việt Nam có khoảng gần 30 tư liệu các loại, chủ yếu là tài liệu công trong đó có đặc biệt cả châu bản, hội điển chép lệ hàng năm những hành động của nhà nước chiếm hữu, thực thi chủ quyền như vẽ bản đồ, cắm mốc, dựng bia, xây miếu thờ (Hoàng Sa tự), trồng cây, đào giếng… của thủy quân triều Nguyễn chứ không còn ít ỏi như thư của Toàn Quyền Pasquier gửi cho Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa ngày 18-10-1930, mà người Pháp lúc ấy cũng đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam hết sức rõ ràng. + Các bản đồ cổ Trung Quốc do chính người Trung Quốc vẽ từ năm 1909 trở về trước đều minh chứng Tây Sa và Nam Sa không thuộc về Trung Quốc. Vận mệnh Hoàng Sa - Trường Sa và cả đất nước Việt Nam đang nằm trong tay thế hệ trẻ chúng ta! Theo hoangsa.org
|