Chủ Nhật, 24/05/2009, 16:46 (GMT+7) Huỳnh Thúc Kháng và bài báo khẳng định chủ quyền Hoàng Sa Ngày 21-4-1947, cụ Huỳnh Thúc Kháng qua đời tại Quảng Ngãi trong chuyến công tác với tư cách đặc phái viên Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thương tiếc cụ Huỳnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Cụ Huỳnh là người giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khó không làm nản chí, oai vũ không làm sờn gan. Cả đời Cụ Huỳnh không cần danh vị, không cần lợi lộc, không thèm làm giàu. Cả đời Cụ Huỳnh chỉ phấn đấu cho dân được tự do, nước được độc lập, đến ngày nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, Chính phủ ta mời Cụ ra. Tuy đã 71 tuổi, nhưng Cụ vẫn hăng hái nhận lời, Cụ nói: "Trong lúc phục hưng dân tộc, xây dựng nước nhà thì bất kỳ già, trẻ, trai, gái, ai cũng ra sức phụng sự Tổ quốc". Còn nhớ trong Bài ca lưu biệt viết năm 1908, trước khi bị thực dân Pháp đày ra Côn Đảo, có đoạn kết như dự báo về con đường dấn thân của cụ: "...Ư bách niên trung tu hữu ngã/Dẫu đến lúc núi sụp, biển lồi, trời nghiêng, đất ngả/Tấm lòng vàng, tạc đá vẫn chưa mòn/Trăng kia khuyết đó lại tròn!". 13 năm sau, cụ ra tù và trở thành một dân biểu, một Viện trưởng Viện Dân biểu Trung kỳ suốt 3 năm với những phen đấu tranh không mệt mỏi đòi hỏi dân sinh, dân quyền cho người dân. Cụ còn đứng ra thành lập, làm chủ bút và điều hành tờ báo nổi tiếng Tiếng Dân tại Huế suốt 16 năm, cho đến khi tờ báo bị thực dân đình bản năm 1943 vì những nội dung đứng về quyền lợi dân tộc, phê phán hệ thống thực dân và vua quan bản địa hèn nhát. 3 năm làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung kỳ, hai lần cụ Huỳnh phản kháng trực diện với Khâm sứ Pháp tại Trung Kỳ ngay tại nghị trường. Lần thứ nhất, vào mùa đông 1926 dưới thời Khâm sứ D'Elloy. Trong một thông tư phổ biến tháng 11.1926, D'Elloy đã viết "nhiều lời mạt sát chửi mắng" các dân biểu bản xứ. Cụ Huỳnh thuật lại trong tự truyện: "Tôi lấy tư cách là Viện trưởng, họp với hơn bốn chục dân biểu, đồng thanh phản kháng, vạch từng đoạn trong thông tư, biện bác, cho đăng trên các báo Nam - Bắc, dư luận ồn lên, thành vụ D'Elloy - Huỳnh Thúc Kháng". Tờ phản kháng gửi đi tháng 2-1927. Không bao lâu sau, D'Elloy bị điều về Pháp. Hai năm sau, dưới thời Khâm sứ Jabouille: "Ngày 1 tháng 10 năm ấy (1928) tôi có bài diễn văn bế mạc, chỉ trích gắt gao chính sách của Chính phủ Pháp thi hành tại Trung kỳ, cho là bất hợp tình thế, khiến nhân dân thêm ác cảm, buộc phải cải cách, như tài chính, học chính, hình luật..."... "Khổ trạng nhân dân Trung kỳ nói không hết. Một là học giới bó buộc... Xứ Trung kỳ bây giờ học cũ đã bỏ hẳn, mà học mới trăm phần chưa được một, trường công không đủ dùng, mà trường tư thì không có, gia dĩ chương trình hạn chế, luật lệ ngăn ngừa; dân lấy sự học làm sinh mạng, mà quan xem sự học như một sự thù nghịch. Nhà nước nói khai hóa mà đường học giới không chịu châm chước thì ức vạn thiếu niên An Nam sẽ thất nghiệp... Cái dốt là cái họa của người An Nam" (Theo Huỳnh Thúc Kháng tự truyện). Ngoài giáo dục, cụ Huỳnh còn lên án những chính sách hà khắc với dân về thuế khóa, nạn cường hào, tham nhũng... Những điều ấy đã làm Jabouille bực tức và "bản chức quyết phản kháng lại một cách kịch liệt những điều công kích của ông nghị trưởng". Ngày 2.10.1928, Huỳnh Thúc Kháng đưa đơn từ chức Viện trưởng. Trên mặt trận báo chí, cụ Huỳnh từng công khai trên số ra mắt Báo Tiếng Dân ngày 10-8-1927 một tuyên ngôn: "Nếu không có quyền nói tất cả những điều mà mình muốn nói, thì ít ra giữ những quyền không nói những điều người ta ép buộc nói" . Xây dựng một tờ báo từ viết bài, định hướng nội dung đến trị sự, khai thác quảng cáo và có cả nhà in riêng ở nước ta như Tiếng Dân cách nay hơn 80 năm, cụ Huỳnh có lẽ là người đầu tiên. Những ai từng tìm hiểu lịch sử báo chí hẳn không thể quên những bài viết về chủ quyền Hoàng Sa của nước ta trong bài Dấu tích đảo Tây Sa (Paracels) trong lịch sử Việt Nam ta và giá trị bản Phủ Biên Tạp Lục. Nhà báo Huỳnh Thúc Kháng viết: "Theo các báo cáo ta gần đây sưu tập các tài liệu về đảo Tây Sa để chứng minh thì đảo ấy là phần sở hữu của nước Nam ta, vì chính người Nam đã chiếm trước hết và đã kinh dinh các công cuộc ở đảo ấy...". Cụ đã liệt kê các tài liệu phong phú: Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn, Đại Nam Nhất Thống Chí cả bản trước và bản của Cao Xuân Dục soạn lại, Triều Chính Yếu Thực Lục của hai triều Gia Long - Minh Mạng, Lịch Triều Hiến Chương của Phan Huy Chú hoặc Cống Hạ Ký Văn của Dương Quốc Dung, Mán Hình Thi Thoại và Đông Hành Thi Thuyết của Lý Văn Thức ghi lại trong những chuyến đi Trung Quốc và Lucon (Philippines) năm 1832, Biển Sử Cương Giám của Nguyễn Thông... đều có đề cập đến Hoàng Sa và chủ quyền của nước ta từ thời bấy giờ. Trong đó cụ Huỳnh nhấn mạnh giá trị của Phủ Biên Tạp Lục bởi sự khẳng định chuẩn xác các yếu tố hành chính, địa lý, kinh tế, quân sự của một nhà khoa học uyên thâm... "Sử chép truyện Chúa Nguyễn có đặt đội Hoàng Sa 70 suất thay phiên ra đảo lấy hải vật, đi ba ngày đêm đến đảo, mỗi năm tháng 3 đi, tháng 8 về. Cụ (tức Lê Quý Đôn) lại có chép sao biên bản của Thuyên Ðức Hầu là cai quản đội Hoàng Sa ấy, kể rõ mỗi năm nhặt được thiếc mấy cân, vàng mấy hốt, đồi mồi, yến sào mấy cân, lại có khi nhặt được đồng khí, súng tiền...". Với tư cách một nhà báo - công dân Việt Nam, cụ Huỳnh kết luận: "Vấn đề "quốc tịch đảo Tây Sa" này, nếu trên sân khấu quốc tế, nhận chủ quyền sở hữu của những ai chiếm trước và có tài liệu làm chứng hẳn hoi, như luật điền thổ, khai tài, khai lập nghiệp ở xa, bằng theo lộ tịch và phân thư chúc từ của tiền nhân để lại, tưởng không có nước nào có chứng cứ đầy đủ như nước ta". Nhắc lại những điều trên đây sau 62 năm ngày mất của chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng để thấy tấm gương "giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khó không làm nản chí, oai vũ không làm sờn gan... không cần danh vị, không cần lợi lộc, không thèm làm giàu... Chỉ phấn đấu cho dân được tự do, nước được độc lập..." của cụ Huỳnh, đặc biệt trong lĩnh vực nghị trường và báo chí, vẫn luôn mang tính thời sự, rất đáng để lớp hậu sinh học tập. Theo TRƯƠNG ĐIỆN THẮNG - Thanh Niên
|