Thứ Năm, 21/02/2013 - 10:18 Chiến hạm Gepard 3.9 “Đinh Tiên Hoàng” có khả năng tàng hình, tìm kiếm, theo dõi và tiêu diệt các mục tiêu trên không, trên biển và chống ngầm, đồng thời có thể tích hợp hàng loạt các loại vũ khí hiện đại khác. Phía Nga và Việt Nam đã ký hợp đồng trị giá 350 triệu USD, đóng 2 chiến hạm lớp Gepard 3.9 do Viện thiết kế ZPKB ở Zelenodolsk thiết kế. Đây là chiến hạm đầu tiên, được khởi đóng từ ngày 10/7/2007. Theo đánh giá của ông Renat Mistakhov, Giám đốc công ty A.M Gorky, Gepard 3.9 đã thể hiện tính năng chiến-kỹ thuật cao trong suốt quá trình thử nghiệm trên biển Baltic. Cùng với tàu Lý Thái Tổ tiếp nhận sau Đinh Tiên Hoàng, đây là lần đầu tiên Hải quân Việt Nam sở hữu những tàu chiến mặt nước có lượng giãn nước trên 2.000 tấn. Nhờ đó, Hải quân Việt Nam đã "tạm biệt" thời đại hoạt động ven bờ, chuyển sang giai đoạn hoạt động ở khu vực biển gần. Đáng chú ý nhất là Gepard 3.9 sử dụng hệ thống chỉ huy, kiểm soát Sigma-E loại mới nhất của Nga, nên những chiếc tàu này đã nhất thể hóa được việc kiểm soát hệ thống hỏa lực. Ngoài ra, nhờ được trang bị hệ thống trinh sát, gây nhiễu điện tử thế hệ mới MP-407E, nên Gepard 3.9 sẽ giúp Hải quân Việt Nam nâng cao đáng kể năng lực tác chiến điện tử. Cùng với tàu ngầm Kilo 636, máy bay chiến đấu đa năng Su30MK2 và tên lửa chống hạm siêu âm Yakhont của hệ thống Bastion-P (có tầm bắn 300 km, đặt trên bờ), Gepard 3.9 sẽ giúp quân đội Việt Nam chính thức có được năng lực tiến công đa năng 3 trong 1 (trên không, dưới nước và trên mặt nước) ở khu vực biển gần, đặc biệt là việc nâng cao đáng kể khả năng chống ngầm. Với sự phối hợp tác chiến đa chiều, Việt Nam cũng cơ bản hình thành được năng lực phòng thủ biển gần tương đối hiệu quả. Năng lực kiểm soát và tấn công của Hải quân Việt Nam sẽ mở rộng, cho phép thực hiện chiến lược chống tiếp cận có chiều sâu.
Yêu cầu của Hải quân Liên bang và hạm đội là lắp đặt trên tầu một đài quét sonar công suất lớn, có khả năng thực hiện nhiệm vụ chống ngầm hiệu quả, đồng thời tăng lượng giãn nước của tầu lên đến hơn 2000 tấn bằng việc tăng các khoang chống thấm nước trên thân tầu. Thời điểm đó xuất hiện một dự án cạnh tranh là dự án 12441 của “Trung tâm thiết kế tầu biển Almaz” với các tên lửa chống tầu mạnh và khả năng mang theo máy bay trực thăng tuần biển và cứu hộ. Cuối năm 1988 Almaz đưa ra dự án tầu SKP 11660, nhưng được một thời gian, chương trình đóng loại tầu này đã khép lại do lý do tài chính.
Tàu tàng hình đa nhiệm
Thông số kỹ chiến thuật Thiết kế của tầu được thực hiện với các mặt phẳng truyền thống với 12 khoang không thấm nước, khả năng tầu vẫn hoạt động tốt nếu có 3 khoang bị trúng đạn tách rời nhau, các thiết kế trên boong tầu được chế tạo từ vật liệu tổng hợp nhôm ma-gie có khả năng hấp thụ đến tối thiểu mức phản xạ hiệu dụng của sóng radar ( công nghệ stealth) tầu được lắp động cơ nguồn diezen và 2 động cơ gaz tuốc bin 2 trục cho công suất tâu lên đến 29000 mã lực. hệ thống động lực kiểu CODOG bao gồm động cơ diezen loại 61D ( 8000 mã lực) đảm bảo cho tầu chạy ở tốc độ hành trình 18 hải lý/giờ, 2 động cơ tuocbin khí gas có thể đẩy vận tốc tối đa của tầu lên đến 28 hải lý/giờ. Có 3 máy phát điện diezen 600 kVh cho mỗi máy phát.
Mô hình động cơ đẩy. Vũ khí trang bị Tên lửa đối hạm
Thông số kỹ chiến thuật Tầm hoạt động của tên lửa (km): 5-130 Tầm cao cơ động/tầm cao tấn công (m): 5-10/3-5 Tốc độ tên lửa hành trình (m/s): до 300 Góc mở cơ động của tên lửa (độ): + 90 Độ chính xác dẫn bắn (КВО) (m): 4-8 Tải trọng cất cánh (với động cơ tăng tải) (kg): 480 (680) Khối lượng đầu đạn (kg): 145
Pháo hạm
• Hệ thống pháo/tên lửa phòng không Palma, tầm bắn tối đa với tên lửa 8,000m, đối với pháo là 4,000m, được điều khiển bằng quang-điện và hỗ trợ dữ liệu từ radar. • 2 súng máy phòng không 14.5mm Chống ngầm 2 ống phóng kép cho ngư lôi 533mm • Hệ thống phóng bom ngầm RBU-6000 với 12 ống
• Hệ thống kiểm soát hỏa lực chống ngầm Purga Hệ thống kiểm soát hỏa lực và trinh sát mục tiêu: • Radar Laska có khả năng vừa sục sạo vừa bám các mục tiêu từ khoảng cách tới 30km, dùng để điều khiển pháo các cỡ từ 30 tới 76mm nhằm tiêu diệt các mục tiêu như máy bay, tên lửa và tàu nổi cỡ nhỏ. Nó được tích hợp với các kênh quang truyền hình và quang hồng ngoại. • Hệ thống SP-521 Rakurs radar – sonar điều khiển tầu Trực thăng • Ka-28 ASW chống ngầm (hoặc Ka-31 mang radar chuyên nhiệm cảnh báo sớm) có hangar (khoang chứa) và bãi đậu. Hệ thống tác chiến điện tử • Hệ thống MP-407E ECM system • Hệ thống mồi bẫy PK-10 (4x10 ống phóng) Thiết bị định vị • Hệ thống định vị Gorizont-257 kết hợp cùng radar Gorizont-25 • Hệ thống EKNIS MK-54IS và GPS NT200D Hệ thống quản lý thông tin tác chiến • Hệ thống Sigma-E Hệ thống nhận dạng mục tiêu • Thiết bị 67R IFF Thông tin liên lạc • Hệ thống thông tin liên lạc tự động Buran-6VE Thiết bị điện tử - radar Radar mảng pha 3 chiều trinh sát mục tiêu trên không và trên biển Pozitiv-ME1 tầm trinh sát tối đa 150km trong điều kiện biển động cấp 3; có thể phát hiện mục tiêu bay có diện tích phản xạ radar 1m2 bay ở độ cao 1000m từ khoảng cách 110km; có thể phát hiện mục tiêu là tên lửa đối hạm có diện tích phản xạ radar 0,03m2 bay ở độ cao 15m từ khoảng cách 15km. Có thể bám cùng lúc 3-5 mục tiêu. Có thể phát hiện mục tiêu là tàu nổi có diện tích 10,000m2 từ ngoài đường chân trời. Lượng giãn nước đầy tải: 2,100 tấn Theo Trịnh Thái Bằng
|