Tranh chấp Biển Đông và vai trò của VN Một tàu cá trước các tàu HQ-264 và HQ-265 của Bộ Tư lệnh vùng 5 Hải quân Việt Nam
Kỷ niệm 40 năm ngày Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, khiến 74 chiến sĩ Quân đội Việt Nam Cộng hoà hy sinh, và kỷ niệm 35 năm ngày Trung Quốc tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược chống Việt Nam, khiến 60,000 người Việt Nam thiệt mạng, và khiến các tỉnh biên giới cực Bắc bị tàn phá nặng nề. Ngày 14 tháng 3 năm nay cũng đánh dấu 26 năm ngày Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm đảo Gạc Ma, thuộc quần đảo Trường Sa, khiến 64 chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam hy sinh. Qua nguồn tư liệu do nhà nước Việt Nam phổ biến công khai sau cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc và qua đối chiếu với nguồn tư liệu độc lập để kiểm chứng, ba điểm mốc thời gian của năm 1974, 1979, và 1988 phản ánh các mắt xích trong một chiến lược lâu dài, nhất quán, của Trung Quốc nhắm vào Việt Nam: Bắt đầu từ thập niên 1950 cho đến ngày nay, bằng những mưu đồ, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt khác nhau, thay đổi tùy tình huống, Trung Quốc luôn luôn muốn kiềm chế Việt Nam, giữ Việt Nam ở vị thế nước yếu kém, lệ thuộc vào Trung Quốc. Mặc dù vào năm 1979, Trung Quốc thất bại thảm hại trong việc sử dụng hàng trăm ngàn quân tinh nhuệ và hoả lực hùng hậu để “dạy” cho Việt Nam một bài học, kể từ sau Hội nghị Thành Đô năm 1990, Trung Quốc thành công đáng kể trong nỗ lực kiềm chế Việt Nam, đặc biệt là trong vấn đề Biển Đông. "Trong gần 20 năm ... Việt Nam hoàn toàn bị động, tiêu cực, không có một phương án nào khác biệt với lập trường của Trung Quốc cho Biển Đông." Thực tế cho thấy, trong gần 20 năm, lãnh đạo Việt Nam chủ trương giải quyết tranh chấp “thông qua đàm phán hòa bình”, trên tinh thần “vừa là đồng chí, vừa là anh em”, và trên cơ sở “16 chữ vàng, 4 tốt”. Việt Nam hoàn toàn bị động, tiêu cực, không có một phương án nào khác biệt với lập trường của Trung Quốc cho Biển Đông. (Xem thêm "Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc” giữa Nông Đức Mạnh-Hồ Cẩm Đào, tháng 6 năm 2008). Trong cùng thời gian, Trung Quốc tích cực xây dựng sức mạnh trong cả hai lãnh vực quyền lực mềm và quyền lực cứng về Biển Đông: Ban hành “Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp” bao gồm quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa năm 1992 (20 năm trước khi Luật Biển Việt Nam được ban hành); kể từ giữa thập niên 1990, đầu tư vào các học viện, trung tâm nghiên cứu chiến lược, quy mô lớn, thu hút sự tham gia của giới nghiên cứu, chuyên gia người nước ngoài; vận động để có quan toà Trung Quốc trong hai cơ chế luật pháp quốc tế: Toà án Quốc tế (ICJ) và Toà án Luật Biển (ITLOS); kể từ năm 1999, ban hành lệnh cấm đánh cá ba tháng mỗi năm, bao gồm vùng biển của Việt Nam; hiện đại hoá lực lượng hải quân để gia tăng sự hiện diện của Trung Quốc trên toàn bộ Biển Đông; lôi kéo đồng minh trong khối ASEAN; nâng cấp đơn vị hành chính quản lý các đảo chiếm đóng bất hợp pháp thuộc Hoàng Sa-Trường Sa, v.v. Mãi cho đến đầu năm 2013, lãnh đạo Việt Nam mới đề cập đến sử dụng công cụ luật pháp quốc tế trong giải quyết tranh chấp Biển Đông. Quan điểm này được đưa ra đúng 25 năm sau sự kiện 14.3 và gần 40 năm sau sự kiện 19.1, trong đấy, Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng Hiến chương Liên Hiệp Quốc khi dùng vũ lực đánh chiếm đảo Gạc Ma thuộc Trường Sa và nhóm đảo phía Tây Hoàng Sa, khiến hơn 100 chiến sĩ hải quân Việt Nam hy sinh. Những bước cần thực hiện Các bước đi này, dù muộn màng nhưng đúng hướng, cần thiết phải có cho quá trình đấu tranh bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa và bảo vệ quyền lợi đất nước trên Biển Đông. Những bước đi khác mà Việt Nam nên khẩn trương thực hiện song song là: Hoàn chỉnh một cách khoa học, nghiêm túc, hồ sơ bằng chứng chủ quyền Hoàng Sa-Trương Sa qua đóng góp của giới nghiên cứu (độc lập cũng như trực thuộc bộ máy chính quyền) và qua tham vấn chuyên gia luật pháp quốc tế người nước ngoài Làm sao để tạo đột phá? Nhân chuyến viếng thăm Trung Quốc của Ngoại trưởng Mỹ John Kerry vào giữa tháng 2 năm 2014, Trung Quốc tuyên bố tranh chấp Biển Đông cần được giải quyết thông qua đàm phán song phương, trên cơ sở chứng cứ lịch sử và luật pháp quốc tế. Để tạo đột phá trong bế tắc hiện nay và để tranh thủ thuận lợi hiện có, xét từ góc độ luật pháp quốc tế và tình hình khu vực, Việt Nam nên hoặc tự mình, trong trường hợp Hoàng Sa, hoặc cùng Philippines, Malaysia, trong trường hợp Trường Sa, hoặc một kết hợp khéo léo của cả hai phương án, công khai kêu gọi Trung Quốc đồng ý để cơ chế luật pháp quốc tế giải quyết tranh chấp Biển Đông. Trung Quốc có quan toà đại diện trong Toà án Quốc tế và Toà án Luật Biển; Trung Quốc cũng luôn luôn khẳng định trước dư luận thế giới là họ có đầy đủ bằng chứng lịch sử và pháp lý hậu thuẫn cho đòi hỏi đường lưỡi bò nói chung và quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa nói riêng. Nếu khẳng định chủ quyền của Trung Quốc là dựa trên cơ sở sự thật, khó có bất kỳ lý do chính đáng nào cho Trung Quốc viện dẫn để từ chối vai trò giải quyết tranh chấp giữa các nước mà Toà án Quốc tế đã và đang hành xử hữu hiệu trong hơn 60 năm nay. Việt Nam đang thật sự đối diện với một trách nhiệm to lớn mà lịch sử giao phó: sử dụng công cụ luật pháp quốc tế để duy trì an ninh và trật tự trong một khu vực trọng yếu của thế giới. Posted by bbc on March 14, 2014 at 05:04:38:
|