14/06/2014 13:46 GMT+7 “Ông Phạm Văn Đồng không bao giờ tuyên bố bỏ Hoàng Sa, không bao giờ nói chịu nhượng bộ bất cứ đảo nào của VN, bất cứ đâu” - GS Ngô Vĩnh Long phân tích. “Ông Phạm Văn Đồng không bao giờ tuyên bố bỏ Hoàng Sa, không bao giờ nói chịu nhượng bộ bất cứ đảo nào của VN, bất cứ đâu. Ông Phạm Văn Đồng chỉ đồng ý theo yêu cầu của ông Chu Ân Lai rằng, lãnh hải có 12 dặm bởi vì quốc tế lúc đó nói lãnh hải chỉ có 3 dặm thôi. Ông Đồng đồng ý vấn đề đó, không có nghĩa là hiến cả Hoàng Sa cho TQ.” Giấy chứng sinh của bà Mai Kim Quy tại đảo Hoàng Sa- con gái ông Mai Xuân Tập, nhân viên khí tượng đảo Hoàng Sa. Công thư không có giá trị pháp lý TQ cho rằng, quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của mình và VN đã hơn một lần công nhận chủ quyền của TQ đối với quần đảo này. Yêu sách đó dựa trên công thư của Thủ tướng VN Dân chủ cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai vào ngày 14 tháng 9 năm 1958 đã thừa nhận tuyên bố của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ấn định chiều rộng lãnh hải TQ 12 hải lý. Tuyên bố của TQ nói sự mở rộng lãnh hải này áp dụng cho “các quần đảo Đài Loan, Đông Sa, Trung Sa, Tây Sa và Nam Sa và tất cả các đảo thuộc TQ”. Liệu sự im lặng về tình trạng của Hoàng Sa và Trường Sa trong công thư này có được coi như là sự ngầm công nhận đối với chủ quyền của TQ trên hai quần đảo này? Ở đây, đối tượng của một sự cam kết đơn phương cần phải thật chính xác. Việc giải thích ý chí của một quốc gia phải thận trọng. Công thư cho thấy một sự cam kết mang tính chính trị nhiều hơn pháp lý, một hình thức thường được các nước xã hội chủ nghĩa sử dụng để thể hiện sự đoàn kết về mặt tư tưởng. Hơn nữa, căn cứ vào chức năng quyền hạn của mình, một Thủ tướng không có thẩm quyền từ bỏ hoặc chuyển nhượng lãnh thổ. Thẩm quyền đó thuộc về Quốc hội VN. Tác giả E. Suy trong tác phẩm Các hành vi pháp lý đơn phương trong công pháp quốc tế cho rằng, “Khó có thể tìm được trong thực tiễn quốc tế các ví dụ từ bỏ hoàn toàn đơn phương. Trên thực tế, một chủ thể luật không thể dễ dàng hi sinh một quyền mà không nhận được các ưu đãi đổi lại. Do vậy, một sự từ bỏ trong phần lớn các trường hợp được cân bằng bởi sự quy thuộc các quyền khác, điều đó một lần nữa lại đưa chúng ta tới hình bóng của luật điều ước. Ngay cả khi, mới chỉ thoạt nhìn ta tin rằng có sự hiện diện của một sự từ bỏ hoàn toàn đơn phương thì cũng nên nghi ngờ bởi vì nó có thể là câu trả lời cho một sự mời mọc hoặc một đề nghị nào đó…” Giáo sư Ngô Vĩnh Long Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không chứa đựng đặc điểm có đi có lại. Do đó, không thể xem công thư này như là sự từ bỏ chủ quyền đối với quần đào Hoàng Sa và Trường Sa. “Khi Công thư 1958 gửi TQ, lúc bấy giờ, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang thuộc quyền quản lý của VN Cộng hòa, theo Hiệp định Genève năm 1954 và TQ là một bên tham gia. Theo logic thông thường, bạn không thể cho người khác những gì khi bạn chưa có được. Do đó, Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị trong việc công nhận chủ quyền đối với cái gọi là Tây Sa hay Nam Sa theo cách gọi của TQ" - Phó trưởng ban Biên giới quốc gia Trần Duy Hải. Như vậy, chỉ có một sự thực rõ nhất đó là TQ đã dùng vũ lực để chiếm đóng Hoàng Sa. Điều này không thể được xem một quyền theo luật pháp quốc tế". Bởi vì “việc sở hữu một lãnh thổ không chấm dứt chỉ do việc mất đi sự chiếm giữ vật chất, cần phải kèm theo việc mất đi đó ý định từ bỏ lãnh thổ.” Posted by vietnamnet.vn on June 14, 2014 at 11:53:30:
|