Chiến lược mới của hải quân Trung Quốc Ngọc Thu lược dịch từ IISS Tàu Haijian 51 của Trung Quốc bị lính biên phòng của Nhật Bản phát hiện cách đảo Oshima Amami của Nhật Bản khoảng 320 km vào ngày 04/05/2010. Việc triển khai về quy mô và phạm vi chưa từng thấy đối với hải quân Trung Quốc, và là lần thứ hai các hoạt động như thế đã được Trung Quốc thiết lập liên tục nhanh chóng: tháng 3, một đội tàu nhỏ hơn đã triển khai tập trận. Hai cuộc tập trận, cùng với các hoạt động chống cướp biển của Trung Quốc tại vịnh Aden, thể hiện sự linh hoạt của các lực lượng hải quân Trung Quốc và sự nổi bật lớn hơn trong tính toán chiến lược của Bắc Kinh. Đội tàu nhỏ của Hải quân Trung Quốc (1) gồm một số tàu chiến hiện đại nhất, có hai tàu ngầm tấn công loại Kilo, chạy bằng dầu diesel trên mặt nước và chạy bằng điện khi lặn dưới nước, và ít nhất hai tàu khu trục loại Sovremenny do Nga sản xuất. Nhiệm vụ trong tháng 3 và tháng 4 là lần đầu tiên với quy mô vượt ra khỏi ‘chuỗi đảo thứ nhất’ – thuật ngữ được Trung Quốc sử dụng cho các đảo gồm Aleutian, Kuriles, quần đảo của Nhật Bản, Ryukyus, Đài Loan, Philippines và Borneo - và chỉ ra rằng việc triển khai vượt ra khỏi chuỗi đảo này bây giờ là chính sách chính thức, đã được các sĩ quan hải quân thảo luận vài năm trước. Căng thẳng trên Biển Đông Thời điểm các cuộc tập trận cho thấy, có mối liên quan trực tiếp đến sự căng thẳng tăng cao trong tranh chấp chủ quyền lâu dài của Trung Quốc đối với các đảo trên Biển Đông. Biên giới hiện tại của Trung Quốc trong khu vực lần đầu tiên xuất hiện trong một cuộc khảo sát do chính phủ Quốc gia Trung Quốc tiến hành vào năm 1935, và được chính phủ Cộng sản giữ lại sau năm 1949. Họ xác định nhiều nhóm đảo của Trung Quốc bao gồm một số quần đảo như Hoàng Sa (Tây Sa), Trường Sa (Nam Sa), Pratas (Ðông Sa), bãi Macclesfield (Trung Sa) và bãi cạn Scarborough (Hoàng Nham Đảo). Trong nhiều thập kỷ, Trung Quốc đã tranh chấp một số hoặc tất cả các quần đảo này với Việt Nam, Đài Loan, Philippines, Malaysia và Brunei. Khoáng sản, khí đốt tự nhiên và dầu mỏ được cho là lý do tranh chấp, mặc dù thiếu các cuộc khảo sát độc lập để biết được có nhiều hay ít. Nhưng điều không chắc chắn này đã không ngăn được các quốc gia đòi chủ quyền trong việc xây dựng các căn cứ quân sự trên nhiều rạn san hô. Hiện nay Trung Quốc có các căn cứ trên đảo Châu Viên, Đá Chữ Thập, Đá Huy Gơ, Đá Gạc Ma, Đá Vành Khăn, Đá Ga Ven và Đá Su Bi. Các căn cứ này, từ các tòa nhà nhỏ ba tầng có đường băng lên thẳng, cho tới các cơ sở có khả năng hoạt động như một bến tiếp nhiên liệu.
Trong tháng ba, Trung Quốc đáp lại lời yêu cầu giúp đỡ của các tàu đánh cá Trung Quốc ngoài khơi quần đảo Trường Sa mà họ bị lính tuần duyên Việt Nam sách nhiễu. Tàu ngư chính 311, tàu tuần tra thủy sản lớn nhất của Trung Quốc, 4.600 tấn, vào ngày 18 tháng 3, từ Tam Á, đảo Hải Nam, được phái đến Biển Đông cùng với tàu tuần tra 202. Tin tức của Trung Quốc đặc biệt tin tức nhấn mạnh sự hiện diện của các khẩu súng máy hạng nặng trên tàu 311. Ngày 1 tháng 4, ông Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch nước Việt Nam, được hai tàu khu trục hộ tống, đến thăm hòn đảo tranh chấp Bạch Long Vĩ (được Trung Quốc gọi là Bái Long Ngụy), hòn đảo nằm giữa thành phố Hải Phòng, Việt Nam và đảo Hải Nam của Trung Quốc. Ông Nguyễn Minh Triết đã tuyên bố tại hòn đảo rằng Việt Nam sẽ ‘không cho phép bất cứ ai xâm phạm lãnh thổ của chúng tôi, biển, đảo của chúng tôi’. Hà Nội chính thức kháng nghị với Bắc Kinh về việc cục thuỷ sản Trung Quốc bắt giữ chín ngư dân vào ngày 22 tháng 3 gần quần đảo Hoàng Sa. Tập trận hải quân tầm xa Trong khi đó, Trung Quốc đã bắt tay vào hoạt động đầu tiên điều được mô tả trên các phương tiện truyền thông chính thức là ‘các cuộc tập trận hải quân tầm xa’. Ngày 18 tháng 3, một đội tàu nhỏ gồm sáu tàu, từ Hạm đội Bắc Hải rời căn cứ ở Thanh Đảo, qua eo biển Miyako gần Okinawa, đi thành ba cặp, có thể trong sự cố gắng nhằm tránh sự chú ý. Các tàu khu trục Amagiri của Nhật Bản báo cáo nhìn thấy một tàu khu trục loại Luzhou và một tàu khu trục Jiangwei II. Một tàu khu trục khác, tàu Asayuki, phát hiện cả tàu khu trục Jiangwei II và Jianghu III. Một tàu chở dầu của Trung Quốc và một tàu cứu hộ đi theo sau. Trước khi đoàn tàu đi qua, một chiếc máy bay KJ-200 của Trung Quốc, có hệ thống điều khiển và cảnh báo trên không, đã bị máy bay F-15 của Nhật theo dõi vì nó bay qua eo biển vào ngày 12 tháng 3. Theo tin tức trên tờ PLA Daily giữa tháng tư, mô tả điều này như là một “cuộc tập trận đường dài”. Chương trình Tin tức Quân sự chính thức của CCTV-7 cũng đưa ra các manh mối như bản chất của việc triển khai: phó Hạm trưởng Hạm đội Bắc Hải nói rằng ‘Trung Quốc cần bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của mình thông qua việc chứng tỏ sức mạnh hải quân đường dài’. Bản báo cáo cũng cho thấy, các máy bay chiến đấu J-8 cung cấp lực lượng không quân hỗ trợ cho các cuộc hành quân tầm xa, và các cuộc tập trận chống tàu ngầm (ASW) đang được thực hiện. Đội tàu nhỏ cho thấy sự hiện diện của nó khi đi qua eo biển Miyako và sau đó là kênh Bashi giữa Philippines và Đài Loan. Các tàu thực hiện nhiều bài tập như thật, cũng như các cuộc tập trận đối đầu với các thành phần của Hạm đội Nam Hải. Báo cáo của Hải quân Trung Quốc cho biết hạm đội đã đến thăm Đá Chữ Thập trong quần đảo Trường Sa, cũng như thực hiện các thêm bài tập gần eo biển Malacca giữa Malaysia và Indonesia. Việc triển khai và các cuộc tập trận là một thông điệp rõ ràng về sự sẵn sàng của Hải quân Trung Quốc để khẳng định quyền lực của Trung Quốc trong khu vực. Đội tàu nhỏ đã quay về căn cứ vào đầu tháng 4. Hạm đội Đông Hải Tàu ngầm Hải quân Trung Quốc và máy bay chiến đấu tập dượt tại vùng biển tỉnh Sơn Đông ngày 23 tháng tư năm 2009. AFP PHOTO/POOL/Guang Niu. Tàu khu trục Nhật Bản, tàu Suzunami và máy bay giám sát đã được phái đi để chụp ảnh đội tàu nhỏ của Trung Quốc, trong đó thay vì đi theo từng cặp, nó đi thành một nhóm lớn qua Okinawa. Tàu Suzunami bị báo động bởi một máy bay trực thăng chống tàu ngầm của Trung Quốc, Ka-28, đã đến quá gần tàu chiến của Nhật Bản trong khoảng 90 mét. Đến cuối tháng 4, đội tàu nhỏ cho thấy dừng chân tại phía Đông của Đài Loan, và tiến hành diễn tập chống tàu ngầm. Việc tạm dừng cuộc hành trình về hướng Nam dường như liên quan trực tiếp đến một sự thay đổi về hoàn cảnh khó khăn của các tàu đánh cá của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa. Khi tàu tuần tra thủy sản của Trung Quốc, tàu 311 và 202, đến quần đảo Trường Sa, họ thấy các tàu đánh cá của Trung Quốc bị nhiều tàu Việt Nam bao quanh. Tình hình trở nên xấu đi sau khi đội tàu hải quân đầu tiên trở về nhà, khi ngày càng có nhiều tàu Việt Nam tập hợp quanh các tàu Trung Quốc. Một phóng viên báo chí trên tàu 311 nói rằng, ngày 8 tháng 4, có khoảng 20 chiếc tàu nhỏ bao vây quanh tàu [Trung Quốc], và ngày 10 tháng 4 con số này đã lên đến 60. Các tàu nhỏ này chỉ cách tàu 311 khoảng 200 mét, và đã chụp ảnh các tàu Trung Quốc. Có lẽ Việt Nam đã không mong đợi phía Trung Quốc có thêm hành động hải quân nào, bởi vì đội tàu đầu tiên [của Trung Quốc] đã quá sức chịu đựng sau 19 ngày, đi hơn 6.000 hải lý. Tuy nhiên, theo báo cáo từ Nhật Bản rằng đội tàu thứ hai đã đi qua eo biển Miyako với ý định làm các tàu Việt Nam sửng sốt. Phóng viên trên 311 mô tả sự kinh ngạc của các thủy thủ Trung Quốc khi từng con tàu Việt Nam biến mất khỏi khu vực vào ngày 12 tháng 4. Dường như tin tức về đội tàu thứ hai của Trung Quốc gây ngạc nhiên cho Việt Nam. Hơn nữa, quyết định đi qua eo biển Miyako mà không đưa ra bất kỳ cảnh báo nào trước có thể có ý định gây sự chú ý càng nhiều càng tốt, để gửi một cảnh báo đến các tàu nhỏ của Việt Nam vây quanh tàu mắc cạn 311. Một khi tàu thuyền Việt Nam rút lui, nhóm của Trung Quốc ngừng di chuyển về phía Nam và bắt đầu tiến hành các bài tập đối phó. Chính sách phát triển Đối với một số nước Đông Nam Á, các hoạt động gần đây cho thấy nỗ lực của Trung Quốc tạo một tiền lệ cho việc thiết lập sự hiện diện hải quân lâu dài trong khu vực. Chiến lược hải quân tiếp tục mở rộng, gồm một tàu sân bay – nâng cấp từ tàu sân bay Varyag của nước Ukraina cũ đang được thực hiện – và các tàu ngầm mới, cũng là mối quan ngại đối với các nước láng giềng của Trung Quốc. Trong năm 2009, Việt Nam phản ứng lại bằng cách đặt mua sáu chiếc tàu ngầm tấn công loại Kilo của Nga. Rõ ràng là Hải quân Trung Quốc đang bắt đầu thực hiện vai trò nổi bật hơn trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Tại lễ kỷ niệm 60 năm hồi năm 2009, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào nói rằng tạo ra ‘một điểm lịch sử khởi đầu’ mới. Năm năm trước đó, Hồ [Cẩm Đào] đã đặt ra ‘sứ mệnh lịch sử’ cho tương lai Hải quân Trung Quốc: củng cố địa vị cầm quyền của Đảng Cộng sản; giúp bảo đảm chủ quyền của Trung Quốc, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh trong nước; để bảo vệ Trung Quốc mở rộng lợi ích quốc gia, và giúp duy trì hòa bình thế giới. Các chỉ dẫn rõ ràng rằng một chính sách mới chính thức thông qua khi các sĩ quan hải quân đưa "đề nghị" lên Quốc hội Trung Quốc trong năm 2009 và 2010. Phạm vi linh hoạt Quan trọng nhất là sự trình diễn của Hải quân Trung Quốc về khả năng tổ chức và tiến hành các hoạt động tầm xa với sự phối hợp nhiều thứ. Điều này cho thấy sự gia tăng khả năng chỉ huy và điều khiển, cũng như cải thiện sự phối hợp giữa các hạm đội khác nhau của hải quân. Mặc dù Hạm đội Đông Hải, được sự ủng hộ cựu Chủ tịch Giang Trạch Dân, là lực lượng tiên phong trong việc giải quyết vấn đề Đài Loan (chẳng hạn như khủng hoảng Eo biển Đài Loan năm 1996), cả hạm đội này cũng như Hạm đội Bắc Hải chưa từng tham gia vào việc triển khai ở Biển Đông . Trong nhiệm kỳ của Chủ tịch Hồ [Cẩm Đào], Hạm đội Nam Hải đã được hiện đại hóa triệt để và thường là lực lượng chính được Trung Quốc sử dụng để khẳng định chủ quyền trên biển. Sự linh hoạt mới này báo hiệu một sự thay đổi đáng kể trong tư duy chiến lược của hải quân. Khả năng tương tác và hỗ trợ lẫn nhau giữa ba đội tàu, đánh dấu một sự chuyển dịch hướng tới một lệnh củng cố trung tâm và thoát khỏi hệ thống lỗi thời về ba hạm đội tàu hoạt động độc lập. Điều này cho thấy hải quân sẵn sàng và có thể vượt qua chuỗi đảo đầu tiên và đi vào Thái Bình Dương - một sự thay đổi đáng kể từ học thuyết trước đó. Trọng tâm mới hiện nay là ‘huấn luyện hàng hải tầm xa’ để ‘bảo vệ chủ quyền quốc gia hàng hải’. Các sĩ quan cao cấp của Hải quân Trung Quốc cũng kêu gọi ‘hình thành và [duy trì] khả năng chiến đấu tầm xa’. Tiến bộ đáng kể đã được thực hiện để đạt được mục tiêu của Trung Quốc trong việc xây dựng một lực lượng hải quân viễn dương hoàn toàn vào năm 2050. Nguồn tài trợ mới đáng kể đã cho phép nó phát triển nhanh chóng từ một lực lượng quốc phòng ven biển với khả năng hải quân hạn chế trong việc chứng tỏ sức mạnh. Hoàn thành [tàu sân bay] Varyag vào năm 2012, sẽ mở rộng hơn khả năng chứng tỏ sức mạnh bằng cách cung cấp sự đào tạo có giá trị cho tương lai, sử dụng cho lực lượng tàu sân bay. Đối với khu vực, tác động chiến lược sẽ phức tạp. Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác sẽ phải đối mặt với một Trung Quốc quyết đoán hơn ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhật Bản và các nước khác sẽ phải làm quen với các đội tàu Trung Quốc di chuyển thường xuyên hơn vào Thái Bình Dương. Tuy nhiên, tập trung chủ yếu của nó sẽ là bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ hơn là sự bành trướng hung hăng. Ghi chú: (2) Auxiliary vessel: là tàu phụ trợ, cũng là tàu hải quân nhưng được thiết kế để hoạt động trong các vai trò hỗ trợ các tàu chiến và các hoạt động hải quân khác. Mục đích chính của tàu phụ trợ không phải để chiến đấu, mặc dù nó có khả năng chiến đấu nhưng giới hạn. Ngọc Thu dịch từ: http://www.iiss.org/publications/strategic-comments/past-issues/volume-16-2010/may/chinese-navys-new-strategy-in-action/
|