[Tintuc-hoangsatruongsa]
Quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông, nên như thế nào? (phần 2)
Trân Văn & Ngọc Trân, RFA
2010-08-16
làm sao để có thể đạt được sự đồng thuận nơi người Việt, nhằm tạo ra sự hậu thuẫn, giúp Việt Nam đạt được lợi ích tốt nhất khi các tranh chấp ở biển Đông Nam Á được quốc tế hóa.
Photo: RFA
Ông Lê Xuân Khoa và ông Đinh Kim Phúc
Trong phần trước, ông Đinh Kim Phúc - chuyên nghiên cứu lịch sử Việt Nam, làm việc tại Khoa Đông Nam Á học, Đại học Mở TP.HCM và ông Lê Xuân Khoa – từng là Viện phó Viện Đại học Sài Gòn, sau đó nghiên cứu và giảng dạy về quan hệ quốc tế tại Đại học Johns Hopkins, qúy vị đã nghe ông Phúc và ông Khoa trình bày vì sao cần “Quốc tế hóa các tranh chấp ở biển Đông Nam Á”, cũng như nếu tham gia tiến trình này, Việt Nam có thể được gì và phải đối diện với những thách thức nào.
Lần này, cuộc thảo luận đuợc tiếp tục với ông Đinh Kim Phúc và ông Lê Xuân Khoa về một vấn đề khác, đó là làm sao để có thể đạt được sự đồng thuận nơi người Việt, nhằm tạo ra sự hậu thuẫn, giúp Việt Nam đạt được lợi ích tốt nhất.
Làm gì để đạt đồng thuận?
Ngọc Trân: “Quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông Nam Á” sẽ là một tiến trình liên quan đến nhiều bên. Trong tiến trình đó, chắc chắn là từng bên sẽ có những mục tiêu riêng phù hợp với lợi ích của riêng mình.
Điều này tạo ra mâu thuẫn có tính tất nhiên là làm sao có thể vừa đạt được lợi ích riêng, vừa tạo ra được sự ủng hộ của nhiều bên có liên quan.
Riêng với trường hợp Việt Nam, ngoài yếu tố chính quyền phải có chính sách đối ngoại khôn khéo, linh hoạt, thực tế còn cho thấy là khi đã xác định cần phải “Quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông”, không thể không quan tâm đến sự ủng hộ của người Việt ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam.
Để tạo niềm tin đối với người dân, theo tôi nhà nước Việt Nam cần phải đẩy nhanh hơn nữa việc "quốc tế hóa, dân tộc hóa, công khai hóa và phi nhạy cảm hóa" trong vấn đề bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông Nam Á.
Ô. Đinh Kim Phúc
Tiếc là trong thời gian vừa qua, chính quyền Việt Nam chưa tạo được niềm tin, vốn là tiền đề của sự hậu thuẫn cho nỗ lực “Quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông Nam Á”, theo hướng có lợi nhất cho Việt Nam. Nhiều người vẫn có cảm giác rằng, chính sách đối ngoại của chính quyền Việt Nam vẫn chỉ nhắm đến lợi ích riêng của đảng cầm quyền, chứ chưa xem lợi ích lâu dài của dân tộc là ưu tiên tối thượng.
Theo các ông, chính quyền Việt Nam cần làm gì để tạo ra được niềm tin và sự hậu thuẫn của mọi người Việt?
Trân Văn: Có lẽ ông Đinh Kim Phúc trả lời câu hỏi này trước sẽ hợp lý hơn. Thưa ông Phúc, ông thấy thế nào?
Đinh Kim Phúc: Tôi không nghĩ rằng chính sách đối ngoại của nhà nước Việt Nam chỉ là phục vụ cho đảng cầm quyền vì Việt Nam là một nước nhỏ và đang sống đan xen trong quyền lợi của các nước lớn nên bước đi phải thận trọng.
Nhiều biểu ngữ đòi hỏi bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, đòi hỏi dân chủ được treo lén lút nhiều nơi (Hà-Nội và Hải Phòng). Courtesy blogharbor.com Để tạo niềm tin đối với người dân, theo tôi nhà nước Việt Nam cần phải đẩy nhanh hơn nữa việc "quốc tế hóa, dân tộc hóa, công khai hóa và phi nhạy cảm hóa" trong vấn đề bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông Nam Á.
Không nên ngăn cản các học giả tự do tự do nghiên cứu. Không nên định hướng các nghiên cứu, vì như thế sẽ không cho ra kết quả chính xác, trung thực.
Nên tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các học giả, trí thức trong và ngoài nước nghiên cứu, đóng góp tiếng nói chung để bảo vệ chủ quyền đất nước. Việc thạc sĩ Hoàng Việt của Đại học Luật TP.HCM không được tạo điều kiện để tham gia hội thảo hè ở Đại học Temple vừa qua là điều nên không có.
Nên tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các học giả, trí thức trong và ngoài nước nghiên cứu, đóng góp tiếng nói chung để bảo vệ chủ quyền đất nước. Việc thạc sĩ Hoàng Việt của Đại học Luật TP.HCM không được tạo điều kiện để tham gia hội thảo hè ở Đại học Temple vừa qua là điều nên không có.
Ô. Đinh Kim Phúc
Vì sao một đất nước hơn 80 triệu dân, mà các hội thảo quan trọng liên quan đến chủ quyền quốc gia như Hội thảo hè 2010 tại Đại họcTemple vừa qua, ngoài những người đại diện cho nhà nước, không có nhiều học giả trong nước tham gia? Phải chăng giới học giả, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã không còn quan tâm tới chủ quyền quốc gia? Nếu đúng như vậy thì thật là nguy hiểm cho dân tộc.
Ngọc Trân: Thưa ông Khoa, ông có muốn góp thêm ý kiến nào vào vấn đề này không ạ?
Ông Lê Xuân Khoa: Quốc tế hóa tranh chấp ở Biển Đông Nam Á sẽ không tạo ra mâu thuẫn giữa lợi ích riêng của mỗi nước và lợi ích chung của các nước liên quan, nếu tất cả các nước liên quan đều chấp nhận rằng quốc tế hóa vấn đề Biển Đông là giải pháp tối ưu và duy nhất có thể ngăn chặn được hiểm họa Trung Quốc. Ở đây, cần phân biệt chủ quyền ở Hoàng Sa là vấn đề riêng giữa Việt Nam và Trung Quốc, với chủ quyền ở Trường Sa là vấn đề liên quan đến một số quốc gia Đông Nam Á.
Chính sử Trung Quốc cho đến đời nhà Thanh cũng đều ghi cương vực của Trung Quốc chấm dứt ở Đảo Hải Nam. Ngoài ra, việc Trung Quốc dùng vũ lực để chiếm đóng Hoàng Sa năm 1974 là một hành động vi phạm trắng trợn Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
Ô.Lê Xuân KhoaVấn đề chủ quyền ở Trường Sa rất phức tạp, đòi hỏi những bằng chứng lịch sử vững chắc và được giải quyết trên cơ sở Luật Biển của Liên Hiệp Quốc. Tôi không chuyên nghiên cứu về mặt này nhưng đã được đọc những tài liệu cho thấy rằng chính sử Trung Quốc không có bằng cớ gì chứng minh được Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc. Chính sử Trung Quốc cho đến đời nhà Thanh cũng đều ghi cương vực của Trung Quốc chấm dứt ở Đảo Hải Nam. Ngoài ra, việc Trung Quốc dùng vũ lực để chiếm đóng Hoàng Sa năm 1974 là một hành động vi phạm trắng trợn Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên, vấn đề Trường Sa rắc rối hơn nhiều vì ngoài Trung Quốc và Đài Loan, mấy nước ASEAN như Mã Lai, Phi-líp-pin, Brunei, Nam Dương đều có liên quan, chưa kể đến những tuyên bố chủ quyền của Pháp và Anh trên một số đảo ở Trường Sa từ trên dưới 100
Hơn 200 người đã biểu tình ở Hà Nội trước tòa đại sứ Trung Quốc (tháng 12, 2007) phản đối việc lãnh hải Việt Nam bị Trung Quốc chiếm đóng. AFP năm trước.
Lãnh đạo các nước ASEAN cần tạm ngưng tranh chấp với nhau và giao cho các chuyên gia tiếp tục nghiên cứu các để án giải quyết. Ưu tiên trước mắt là thống nhất lập trường phủ nhận đường lưỡi bò của Trung Quốc và đối thoại đa phương với Trung Quốc trên căn bản chung sống hòa bình, hợp tác và phát triển.
chính quyền phải từ bỏ chế độ độc tài toàn trị, thực thi những quyền tự do căn bản cho nhân dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân để thương thuyết với Trung Quốc, và đón nhận sự hợp tác của trí thức trong và ngoài nước
Ô.Lê Xuân Khoa
Về việc chính quyền cần phải làm gì để tạo được niềm tin và sự hậu thuẫn của người Việt cả ở trong lẫn ngoài nước cho những cuộc thương thuyết có lợi nhất cho Việt Nam, thì tôi đã nói đến khi trả lời câu hỏi về vấn đề thách thức và cơ hội cho chính quyền Việt Nam. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng đây là “thời cơ vàng” cho lãnh đạo Việt Nam xoay chuyển tình thế từ bất lợi sang thuận lợi, vừa có hậu thuẫn của quốc tế vừa tạo được niềm tin của nhân dân trong nước và cộng đồng hải ngoại. Muốn như vậy, chính quyền phải từ bỏ chế độ độc tài toàn trị, thực thi những quyền tự do căn bản cho nhân dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân để thương thuyết với Trung Quốc, và đón nhận sự hợp tác của trí thức trong và ngoài nước trong các quyết định về chính sách đối nội và đối ngoại.
Trân Văn: Vừa rồi, ý kiến của ông Phúc gợi ra nơi tôi một thắc mắc, mong ông giải đáp, đó là ông có đề cập đến sự nguy hiểm do thờ ơ. Một số người không gọi sự thờ ơ ấy là nguy hiểm, họ bảo đấy là đại họa cho tương lai của dân tộc.
Là một người nghiên cứu về biển Đông Nam Á và theo dõi sát các diễn biến có liên quan đến khu vực này nói riêng cũng như chủ quyền quốc gia nói chung, theo ông, đâu là các dấu hiệu của đại họa?
Ông Đinh Kim Phúc: Theo tôi, khi người dân thờ ơ với chủ quyền quốc gia, dân tộc, và giới học giả, nghiên cứu, trí thức quay lưng lại với đất nước do các trở ngại nào đó… Một khi nhà nước lo không nổi, người dân thờ ơ, trí thức thì quay lưng, ngoảnh mặt…đấy sẽ là đại họa cho dân tộc.
Học giới cũng cần ngồi lại với nhau
Trân Văn: Trên thực tế thì những diễn biến liên quan đến biển Đông nói riêng, rồi quan hệ Việt – Trung, tương quan giữa thế và lực của Việt Nam, của Trung Quốc trong khu vực nói riêng, trên thế giới nói chung, đã cũng như đang khiến người Việt ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam thực sự lo âu.
Sự âu lo này khiến nhiều người cảm thấy cần phải làm gì đó trong việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam. Ngoài các nỗ lực cá nhân, còn có sự ra đời của nhiều nhóm. Tuy có những khác biệt nhất định về cách thức, thậm chí là về quan điểm song các cá nhân và nhóm đều cùng hướng đến mục tiêu là khơi dậy lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm, củng cố chứng cứ, luận cứ về chủ quyền.
Gần 300 người Việt ở Hoa Kỳ biểu tình trước tòa đại sứ Việt Nam và Trung Quốc (Tháng 9 năm 2008). RFA Riêng trong lĩnh vực củng cố chứng cứ, luận cứ về chủ quyền, có một thực tế không thể không quan tâm là những nghiên cứu về chủ quyền của Việt Nam tại biển Đông của học giới người Việt ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam có vẻ còn chủ quan, phiến diện.
Ngọc Trân: Tôi thấy sự chủ quan, phiến diện này, một phần là do tâm cảm, phần khác quan trọng hơn là vì tư liệu, tài liệu phân tán. Ở hội thảo hè do giới nghiên cứu người Việt vừa tổ chức tại Philadelphia, Hoa Kỳ, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Giao cho biết, tại Pháp, hiện có nhiều tài liệu gốc liên quan đến chủ quyền của Việt Nam chưa được khai thác. Tiến sĩ Vũ Quang Việt thì đề cập đến tình trạng Việt Nam chưa nghiên cứu kỹ các châu bản triều Nguyễn..
Theo tôi, trong tình hình hiện nay, các học giả phải ngồi lại với nhau, để sang một bên vấn đề ý thức hệ để thống nhất hướng nghiên cứu, tập trung mọi khả năng tìm ra những tư liệu mới để củng cố quan điểm của Việt Nam .
Ô. Đinh Kim Phúc
Ai cũng biết, trong tiến trình “Quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông Nam Á”, Việt Nam chỉ có thể đạt được lợi ích lớn nhất nếu có chứng cứ vững chắc về mặt lịch sử và xác lập được luận cứ phù hợp về công pháp quốc tế. Tuy nhiên do tư liệu, tài liệu phân tán, học giới Việt Nam đã và hiện có những mâu thuẫn lớn trong biện giải về chủ quyèn lãnh thổ. Có lẽ chỉ có thể giải quyết được tình trạng này khi học giới Việt Nam, ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam chia sẻ cho nhau cả về tư liệu lẫn quan điểm.
Theo các ông, làm sao để học giới Việt Nam trên khắp thế giới có thể cùng thảo luận với nhau, thuyết phục được nhau trước khi thuyết phục thiên hạ?
Ông Đinh Kim Phúc: Đầu tiên cần nhấn mạnh về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa là quyền phát hiện, chiếm hữu và khai thác liên tục có hiệu quả phải thuộc về nhà nước. Vấn đề đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia là việc của nhà nước. Nhưng nhà nước có việc của nhà nước, các nhà khoa học có việc của các nhà khoa học và người dân có việc của người dân, miễn sao phải có sự đồng thuận trên - dưới, trong - ngoài.
Theo tôi, trong tình hình hiện nay, các học giả phải ngồi lại với nhau, để sang một bên vấn đề ý thức hệ để thống nhất hướng nghiên cứu, tập trung mọi khả năng tìm ra những tư liệu mới để củng cố quan điểm của Việt Nam . Để đạt được điều này chính phủ Việt Nam phải là người tổ chức và tập hợp.
Muốn đạt được sự đồng thuận về giá trị của tư liệu và sự vững chắc của quan điểm, cần có những cuộc trao đổi rộng rãi hơn qua những cuộc hội thảo trên mạng lưới điện tử, hay hội thảo trực tiếp tại hội trường.
Ô.Lê Xuân Khoa
Ông Lê Xuân Khoa: Quả thật, học giới Việt Nam trong và ngoài nước, dù là cá nhân hay nhóm, đều đang nỗ lực tìm kiếm chứng cứ và củng cố luận cứ về chủ quyền Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng đúng là do nguồn tài liệu khác nhau, các học giả Việt Nam đã có những luận giải khác nhau, có khi mâu thuẫn với nhau về chủ quyền trên các đảo này.
Ý thức được điều này, học giới Việt Nam đã có những trao đổi cả về tư liệu lẫn quan điểm, nhưng còn giới hạn giữa những cá nhân hay nhóm quen biết nhau từ trước. Muốn đạt được sự đồng thuận về giá trị của tư liệu và sự vững chắc của quan điểm, cần có những cuộc trao đổi rộng rãi hơn qua những cuộc hội thảo trên mạng lưới điện tử, hay hội thảo trực tiếp tại hội trường.
Cuộc hội thảo của học giới Việt Nam tại Đại học Temple ở Philadelphia cuối tháng Bảy vừa qua là một thí dụ minh chứng cho những trao đổi cần thiết này. Chỉ tiếc là số học giả trong nước tham gia quá ít, vì gặp khó khăn trong việc xin phép chính quyền. Cụ thể là trường hợp thạc sĩ Hoàng Việt thuộc Đại học Luật TP.HCM được ông Phúc nói đến hồi nãy là đã “không được tạo điều kiện để tham gia”.
Nhà nghiên cứu Hồ Bạch Thảo đã phản bác tửng điểm một trong tập tài liệu đồ sộ của học giả Trung Quốc Hàn Chấn Hoa, vạch rõ những sai lầm, ngụy biện và gian trá của họ Hàn nhằm chứng minh chủ quyền của Trung Quốc ở “Nam Hải chư đảo”.
Ô.Lê Xuân Khoa
Tôi và nhiều người khác đều nhận được tin tức là luật gia Hoàng Việt đã bị chính bà hiệu trưởng không cho phép và đe dọa mặc dù ông đâ có giấy giới thiệu của Bô Ngoại giao ở Hà Nội. Trường hợp lạm quyền này nếu xảy ra ở một nước dân chủ thì chắc chắn chính bà hiệu trưởng sẽ bị kỷ luật và có thể mất việc.
Những bài tham luận trong cuộc hội thảo Philadelphia đều là những công trình nghiên cứu có giá trị khoa học mà chính quyền cần tham khảo để hoạch định chính sách về Biển Đông Nam Á. Thí dụ nhà nghiên cứu Hồ Bạch Thảo đã phản bác tửng điểm một trong tập tài liệu đồ sộ của học giả Trung Quốc Hàn Chấn Hoa, vạch rõ những sai lầm, ngụy biện và gian trá của họ Hàn nhằm chứng minh chủ quyền của Trung Quốc ở “Nam Hải chư đảo”.
Tôi được biết sau cuộc hội thảo này, Tiến sĩ Vũ Quang Việt đã bổ sung và hoàn tất bản dự thảo của ông thành một tài liệu nghiên cứu gần 100 trang về cuộc tranh chấp Biển Đông Nam Á, vừa được ông công bố trên trang mạng Thời Đại Mới. Đây là một đóng góp quan trọng cho những nỗ lực tìm kiếm giải pháp hòa bình và công lý dựa trên chứng cứ lịch sử và luật pháp quốc tế.
Đến đây thì cuộc hội luận giữa chúng tôi với các ông: Đinh Kim Phúc, Lê Xuân Khoa chuyển sang phần cuối cùng, đó là nếu như chính quyền Việt Nam thật sự muốn đạt được sự đồng thuận làm hậu thuẫn cho tiến trình “Quốc tế hóa tranh chấp ở biển Đông Nam Á”, theo hướng có lợi nhất cho Việt Nam thì họ phải làm gì trước. Nội dung phần cuối của cuộc hội luận này sẽ được giới thiệu trong lần phát thanh tới, mời qúy vị đón nghe…,
Posted by RFA
on August 17, 2010 at 00:40:40:
[Tintuc-hoangsatruongsa]