Việt – Mỹ xúc tiến hợp tác quốc phòng Thanh Quang, phóng viên RFA Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates (phải) và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh bắt tay tại cuộc họp song phương bên lề hội nghị an ninh hàng năm, ở Singapore ngày 04 tháng 6 năm 2010.
Đối thoại chính sách quốc phòng Cuộc đàm phán chủ đề “Đối thoại chính sách quốc phòng”, với sự tham dự của ông Robert Scher, Thứ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ đặc trách Nam Á và Đông Nam Á và Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, diễn ra chỉ vài ngày sau khi hải quân 2 nước thực hiện cuộc thao dợt hỗn hợp lần đầu tiên ở biển Đông. Theo tướng Nguyễn Chí Vịnh thì trong cuộc đàm phán, hai bên đề cập tới mối quan hệ phòng thủ song phương, kể cả các biện pháp tăng cường quốc phòng giữa 2 nước trên cơ sở cùng có lợi. Tướng Nguyễn Chí Vịnh nhân tiện khẳng định lập trường của Việt Nam là chủ yếu dựa vào sức mình để bảo vệ tổ quốc, chủ trương không tham gia liên minh quân sự, không dựa vào nước này để chống nước kia. Và ông bác bỏ điều cho rằng cuộc thao dợt hỗn hợp hải quân Việt-Mỹ vừa rồi thể hiện xu hướng mới của Việt Nam là muốn liên kết nhiều hơn với Hoa Kỳ.
GS Nguyễn Mạnh Hùng Nhận xét về diễn tiến này, giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng giảng dạy môn Bang giao Quốc tế thuộc Đại học George Mason, tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ cho biết: GS Nguyễn Mạnh Hùng: Tôi nghĩ là kể từ năm 2006, khi Thủ tướng Việt Nam, ông Phan Văn Khải sang Mỹ, hai nước đều tuyên bố sẽ nâng cấp đối thoại lên mức cao hơn. Trước hết họ nâng cấp về ngoại giao, và bây giờ nâng cấp quốc phòng. Chuyện này thực ra trong tiến trình đã có rồi. Nhưng điều đặc biệt là tiến trình này xem chừng đi nhanh hơn dự định, là bởi vì từ năm 2009, khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên “đường lưỡi bò”, thì Bắc Kinh xâm phạm đến quyền lợi nhiều nước khác, qua đó, lần đầu tiên chúng ta thấy Mỹ và Việt Nam có quyền lợi chiến lược chung với nhau. Theo GS Ngô Vĩnh Long thuộc Khoa Lịch Sử Á Đông, Đại học Maine, Hoa Kỳ, thì việc tăng cường hợp tác quốc phòng Mỹ-Việt là điều thiết yếu không những cho VN, mà còn cho an ninh trong khu vực và cả thế giới: GS Ngô Vĩnh Long: Gần đây Trung Quốc “quậy’ quá về vấn đề biển Đông, gây mất an ninh không những cho toàn khu vực mà còn cả thế giới, vì biển Đông là vùng rất quan trọng, gần 60% lượng hàng hóa được chuyển qua đường biển này. Trung Quốc lại đòi tất cả biển Đông là quyền lợi cốt lõi của họ, tức họ xem khu vực này cũng như Tân Cương, Tây Tạng hay Đài Loan. Do đó họ nhất quyết không thương lượng gì hết khiến gây khó khăn lớn cho cả thế giới. Mà Việt Nam là nước bị đe dọa nhiều nhất vì có lãnh thổ và lãnh hải dài nhất thì dĩ nhiên Việt Nam phải bảo vệ quyền lợi của mình nói riêng và cùng các nước khác bảo vệ an ninh nói chung. Đặc biệt là Việt Nam có cùng các nước khác bảo vệ an ninh chung thì Việt Nam mới được sự hỗ trợ của những nước khác. Do vậy, tôi thấy việc thương lượng giữa Mỹ với Việt Nam là vấn đề tối cần không những cho 2 nước mà còn cho khu vực và cả thế giới.
Đại tá Trần Liêm: Vấn đề này thể hiện sự hợp tác của Việt Nam với các nước, qua đó Việt Nam thực hiện được chính sách về biển, tức tăng cường công tác về biển của Việt Nam, kể cả việc bảo vệ biển đảo cùng nhiều thứ khác. Cho nên, về mặt quân đội, Việt Nam cũng có dịp tăng cường lực lượng hải quân, đồng thời mua thêm trang bị quân sự như máy bay, tàu chiến, thậm chí nghe nói có cả tên lửa để bảo vệ tuyến biển. Tôi nghĩ đây là công tác quốc phòng của Việt Nam thôi. Nhưng Đại tá Trần Liêm nhấn mạnh: Đại tá Trần Liêm: Sự hợp tác này có liên quan gì đến vấn đề biển Đông hay không, thì diễn tiến này cũng để trả lời, để thể hiện thái độ của Việt Nam là dứt khoát bảo đảm rằng biển Đông cùng Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Lực lượng đối trọng? Theo GS Nguyễn Mạnh Hùng thì sự gia tăng hợp tác quốc phòng Việt-Mỹ sẽ có lợi cho Việt Nam vì chính Hoa Kỳ mới đủ sức là lực lượng đối trọng trước tham vọng Bắc Kinh khống chế biển Đông.
Đại tá Trần Liêm GS Nguyễn Mạnh Hùng: Diễn tiến này có lợi cho Việt Nam tùy thuộc vào cách hành xử của Việt Nam. Trước hết nó tạo điều kiện cho Việt Nam có mối liên lạc mật thiết hơn với Hoa Kỳ. Mặc dù Việt Nam không dùng chữ “đối trọng”, nhưng trong mối quan hệ quốc tế thì thường nước nhỏ phải dùng những lực lượng đối trọng với nhau. Cho nên Việt Nam áp dụng chính sách gọi là đa phương hóa, đa diện hóa ngoại giao cũng nằm trong khuôn khổ đó. Nhưng nếu dùng lực đối trọng từ những nước nhỏ như ở Đông Nam Á hay nước lớn hơn như Nhật Bản thì không ăn thua gì cả. Phải Mỹ mới là lực lượng đối trọng quan trọng nhất. Nếu Việt Nam áp dụng phương cách này một cách thường xuyên thì đó là điều lợi cho Việt Nam. Đại tá Trần Liêm tin rằng Việt Nam hợp tác với không những Mỹ mà những nước khác, kể cả Trung Quốc, sẽ góp phần xác định chủ quyền lãnh hải của Việt Nam tại biển Đông: Đại tá Trần Liêm: Trong mối quan hệ này của Việt Nam đối với Mỹ thì cũng như quan hệ đối với Trung Quốc và quan hệ đối với các nước ASEAN. Tức là làm thế nào để bảo đảm được rằng rồi đây biển Đông là của ai, theo luật biển năm 82 theo công ước quốc tế. Trước việc Việt Nam và Hoa Kỳ tăng cường hợp tác quân sự giữa lúc Trung Quốc xem chừng như bằng mọi giá ra sức thôn tín gần như trọn vùng biển Đông, thì câu hỏi được nêu lên là Bắc Kinh có thể phản ứng đáng ngại ra sao, nhất là ảnh hưởng đến Việt Nam. GS Ngô Vĩnh Long nhận xét: GS Ngô Vĩnh Long: Tôi nghĩ hiện nay Trung Quốc không dám dùng võ lực trên biển Đông, nhưng Trung Quốc có thể phá kinh tế Việt Nam. Thí dụ như 90% cuộc đấu thầu, Việt Nam đã lỡ cho Trung Quốc đấu thấu rồi, thì có thể Trung Quốc sẽ phá liên quan lãnh vực đó. Hay việc Trung Quốc khai thác mỏ ở Việt Nam, ngoài mỏ bauxite, còn có mỏ than, mỏ vàng. Thậm chí Trung Quốc có thể trả thù trên dòng Mekong qua các đập ở thượng nguồn... Điều mà mọi người đang để ý là nếu Trung Quốc thực hiện hành động trả thù thì Việt Nam phải đem vấn đề ra trình bày với thế giới. Nếu không, Bắc Kinh cứ âm thầm hành động như vậy khiến gây khó khăn cho Việt Nam. Tôi nghĩ khi Việt Nam đã thương lượng với Mỹ tới cấp Thứ trưởng Quốc phòng thì sự việc đã gây nhiều chú ý rồi. Nếu Bắc Kinh trả thù, Việt Nam có thể “la làng”.
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Nếu chúng ta nhìn vào hành động của Trung Quốc thì thấy Bắc Kinh thường thực hiện tham vọng bành trướng của mình trong chiều hướng bất lợi cho Việt Nam. Bắc Kinh luôn luôn tìm cơ hội nào thuận tiện thì họ hành động. Thí dụ như hồi năm 1974, khi quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam rồi và Washington ra luật “amendment” không cho phép sử dụng quân sự nữa, thì Trung Quốc đánh chiếm luôn quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Rồi đến năm 1988, khi Việt Nam chuẩn bị rút quân khỏi Cambodia theo lộ trình Mỹ đề ra – tức Việt Nam phải rút khỏi Cambodia, cộng tác để mang lại hòa bình cho Cambodia…, thì Hoa Kỳ sẵn sang điều đình để bình thường hóa với Việt Nam. Chính ngay trong lúc đó, khi quan hệ Mỹ-Trung vẫn còn tốt đẹp với nhau thì Bắc Kinh đánh chiếm luôn một số đảo ở Trường Sa của Việt Nam năm 1988. Cho nên trong tình trạng Việt Nam đi gần hơn với Mỹ thì Trung Quốc có thể lợi dụng trường hợp nào đó để “phản ứng nhanh chóng”. Diễn tiến gia tăng hợp tác quân sự Mỹ-Việt diễn ra giữa lúc thế giới nghi ngại về hành động ngày càng lấn lướt của Trung Quốc tại biển Đông. Có lẽ đó là lý do khiến tạp chí The Economist của Anh, số ra trung tuần tháng 8 này, cho rằng Trung Quốc phải nỗ lực nhiều hơn để ngăn chận “mầm móng bất tín nhiệm” do chính Trung Quốc gây ra đối với những xứ láng giềng. Vẫn theo tờ báo, điều đó đỏi hỏi sự minh bạch về mục tiêu chiến lược thật sự của Hoa Lục, và cả thiện chí của Bắc Kinh khi thảo luận với các nước trong khu vực trên cơ sở đa phương.
|