Những bài thơ, nhạc cho Hoàng Sa Trường Sa

    [Tintuc-hoangsatruongsa]

    Những bài thơ, nhạc cho Hoàng Sa Trường Sa

    Mặc Lâm, phóng viên RFA
    2010-08-28
    Mấy lúc gần đây mặc cho chính quyền có thái độ nhũn nhặn đối với vấn đề Hoàng Sa Trường Sa, người trẻ trong và ngoài nước đã chọn Internet làm vũ khí truyền thông để chuyển tải tiếng nói của họ.


    Ảnh do thính giả gửi RFA

    Các bạn trẻ với áo, mũ “Hoàng Sa, Trường Sa, Việt Nam” tại hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội hôm 14-3-2010.

    Những bài viết tuy dài ngắn khác nhau, nhưng chủ đề chính là đòi chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam.

    Bên cạnh những bài viết có tính chính luận, có không ít bài thơ được gửi đi khắp thế giới trong chủ đề này. Hôm nay chúng tôi mời quý vị thưởng thức vài bài thơ hoặc nhạc phổ từ thơ rất độc đáo của những ngòi bút nổi tiếng hay chưa nổi tiếng, nhưng nét chung của các tác giả lại rất giống nhau: xót xa trước những mất mát không thể bù đắp, và đau đớn trên từng giọt máu đã đổ ra để bảo vệ tổ quốc.

    Ngược thời gian trở về với năm 1974, toàn dân miền Nam lúc ấy đang sống trong chiến tranh với miền Bắc nhưng khi nghe tin Hoàng Sa bị Trung Quốc đánh chiếm thì hầu như cả miền Nam rực lửa. Quân đội vừa phải đối diện với các lực lượng lớn đang ùa vào từ miền Bắc lại phải đối mặt với kẻ thù bên ngoài là Trung Quốc, thế gọng kềm đã làm suy kiệt sức chiến đấu của đội binh tinh nhuệ của miền Nam lúc bấy giờ.

    Bài Thơ Cho Hải Ðảo Hờn Căm

    Nhà thơ Phạm Lê Phan, vào chiều 30 Tết Giáp Dần, đã sáng tác bài thơ mang tên “Bài Thơ Cho Hải Ðảo Hờn Căm” như một lời nhắn đối với hải đảo xa xôi. Lời nhắn này làm mềm lòng người nghe và vẫn còn âm hưởng cho tới bây giờ, nhiều năm sau ngày bài thơ được sáng tác


    Trung tá Ngụy Văn Thà, hạm trưởng Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 đã tuẫn tiết theo tàu khi đụng độ với hải quân TQ

    Lời biển gọi cuối năm
    Hờn căm trừng mắt lửa
    - Hỡi Hoàng Sa, hỡi Hoàng Sa ...
    Mẹ đứng mũi Sơn Chà
    Gửi hồn ra Ðông Hải
    Ðảo nổi giận nên biển cuồn sống dậy
    Ôi, đất nước ông cha: tay đứt lòng đau
    Súng thét khơi xa, sao lửa đốt trong đầu
    Lòng mẹ bời bời: ruột mềm máu chảy
    Mắt mẹ trông vời, triền môi run rẩy:
    - Hỡi Hoàng Sa, hỡi các cháu con ta?

    Con cháu mẹ
    Năm mươi đứa làm anh hùng của bể
    Năm mươi con thành dũng sĩ Trường Sơn
    Bốn ngàn năm mài nhọn mũi căm hờn
    Phóng mắt hận, nghiến răng ghìm giặc Bắc.
    Cờ Nương Tử phất bay hồn xâm lược
    Gươm Mê Linh thét máu nhuộm đầu voi
    "Trèo lên đỉnh núi mà coi
    Dáng Bà quản tượng trăng soi ngời ngời".
    Cửu Chân hề, Cửu Chân ơi!
    Gót nhi nữ ra khơi
    Ðạp tan luồng sóng dữ
    Chém cá tràng kình, rạng danh liệt nữ
    Dũng khí Nhụy Kiều gục mặt Bắc quân!

    Ngậm mối thù truyền kiếp mấy ngàn năm
    Con cháu mẹ từng nhọc nhằn u uất
    Ðắm biển mò châu phơi rừng tìm ngọc
    Nanh vuốt sài lang nào kể gái hay trai
    Máu mỡ no nê muông thú một bầy
    Loài đỉa Hán vốn cuồng say máu Việt
    Nước độc rừng thiêng một đi là một chết
    Vạn người đi, không một bóng ma về

    Nhà thơ Phạm Lê Phan khi ấy ngồi ở Sài Gòn nhưng lòng như lửa đốt. Ông dẫn người đọc thơ ông tỏa ra muôn ngã để cùng đau nỗi đau mất nước. Từ Trường sơn cho đến Hoàng Sa. Từ cội nguồn Bạch Đằng đến An Lộc, Trị Thiên, tất cả làm thơ của Phạm Lê Phan như vắt ra thành máu. Kiêu hùng mà xót xa lạ lung.


    Trận hải chiền năm 1988, trước hỏa lực mạnh mẽ của hải quân TQ tàu HQ 604 của quân chủng HQVN đa bị bắn chìm.

    Ðá Trường Sơn con khắc ngập câu thề:
    "Ðòi nợ máu phải đổi răng, đổi mắt!"
    Bạch Ðằng xưa nghẹn giòng muôn xác giặc
    Dù Hán, dù Mông nước đỏ cũng hôi tanh
    Tóc thú đuôi sam - gươm dáo Việt tung hoành.
    Vó ngựa Lý, Lê từng phen đạp Tống
    Ngọn dáo Ðinh, Trần vạch cõi Nam uy dũng,
    Ðầu Mãn Thanh vờn kiếm lộng Quang Trung.
    Trải an nguy son sắt vẫn một lòng
    Mỗi tấc đất một chiến công oanh liệt
    Mỗi tên người một anh hùng, nữ kiệt
    Mỗi gốc cây muôn xác quỉ vùi sâu
    Dòng Việt Nam chưa hề biết cúi đầu
    Dù giặc Bắc bạo tàn hơn súc vật!

    Chất trường ca trong bài thơ rõ nét nhất khi tác giả chuyển đổi các cung bậc làm nó trở thành một bài “Hành” thể loại có tác dụng tương đương tiếng trống ra trận và từ đó thăm thẳm vang vang trong lòng người đọc. Mang mang nỗi ngậm ngùi nhưng cũng không thiếu phần hùng tráng.

    Hồn Nam Hải cuối năm
    Lạnh căm căm hơi bấc
    Bởi thương con mẹ lên đỉnh Sơn Trà
    "Ôi Hoàng Sa, hỡi Hoàng Sa
    Khôn thiêng nối gót mẹ cha mà về".
    Hãy đứng thẳng mà đi
    Hỡi đàn con từng khua sôi biển cả
    Cất cao đầu uống lời thề sông Hóa
    Hàm Tử, Vân Ðồn, Tây Kết, Chương Dương,
    Vươn chiến công kim cổ Bạch Ðằng Giang
    Xô cuồng vọng Bắc Kinh vào biển máu!
    Xưa ông cha mình giết Liễu Thăng, Hoằng Tháo
    Ðánh gục đầu Tôn Sĩ Nghị, Thoát Hoan.
    Giờ bè lũ Mao lại xâm phạm biên quan
    Xua hải tặc cuồng điên lên cướp đảo
    Ôi Hoàng Sa, hỡi Hoàng Sa yêu dấu
    Ðất đai ta một mảng cũng thịt xương
    Tổ quốc ta một tấc cũng tim gan
    Xương thịt đứt thì tim gan đau xót!
    Hỡi đàn con của Cửu Long bất khuất
    Ngạo nghễ trên vai hồn An Lộc, Tam Biên
    Mang trong tim giòng máu thép Trị Thiên
    Lời phạt Bắc thét run hồn biển cả.

    Chiều cuối năm, một mối thù chưa trả
    Xuân sắp về - trời bỗng nặng nề mưa ...

    Ai Đó Nói Với Tôi Câu Chuyện Này Có Thật

    Giới trẻ Việt Nam tập trung biểu tình trước Tòa đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội hôm 9-12-2007. AFP PHOTO
    Khác với giọng thơ lúc bi tráng lúc ngậm ngùi của Phạm Lê Phan, nhà thơ Đỗ Trung Quân tuy cũng ở Sài Gòn nhưng mốc thời gian là hơn bốn mươi năm sau. Thời điểm này tòa tổng lãnh sự Trung Quốc đã nằm chễm chệ tại thành phố mang tên Bác. Trong bài thơ “Ai đó nói với tôi câu chuyện này có thật” Đỗ Trung Quân đặt mình vào người lính gác, vị trí gần nhất trước tòa lãnh sự để nhìn vào bên trong, thốt lời cay đắng:

    tôi

    người lính gác bên ngoài sứ quán trung quốc

    tôi hai mươi tuổi

    có đủ kỷ luật quân đội

    làm nhiệm vụ người lính cấp trên giao

    tôi im lặng

    nhưng tôi nói thầm

    tiên sư bố chúng mày!

    bọn ăn cướp

    ông chỉ là thằng lính gác

    nhưng quốc tịch Việt Nam

    tôi

    người lính gác bên ngoài lãnh sự quán trung quốc

    tôi hai mươi mốt tuổi

    có đủ kỷ luật quân đội

    tôi làm nhiệm vụ cấp trên giao

    “này anh kia! ra khỏi khu vực này! khu cấm tụ tập!”

    rồi tôi lại im lặng

    chỉ nói thầm

    “cứ phun bãi nước miếng vào chúng nó, rồi đi đi những người đồng tuổi!

    cam đoan coi như tôi không thấy

    thật đấy!”

    tôi

    Người lính gác bên ngoài dinh thái thú

    lặng im

    nhưng lòng tôi cuộn sóng

    sóng...

    sóng...

    sóng...

    Tổ Quốc Nhìn Từ Biển
    Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến không cay đắng như Đỗ Trung Quân, là người lính nằm ở Trường Sơn nhưng lòng lại tha thiết với Hoàng Sa khi hay tin giặc chiếm. Trong bài thơ “Tổ quốc nhìn từ biển” Nguyễn Việt Chiến nhìn thật sâu vào lịch sử bằng cái nhìn tỉnh táo của một người lính.


    Sinh viên Thanh niên Việt Nam biểu tình chống Trung Quốc. AFP PHOTO.
    Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển
    Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa
    Ngàn năm trước con theo cha xuống biển
    Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa

    Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc
    Các con nằm thao thức phía Trường Sơn
    Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả
    Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn


    Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển
    Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng
    Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa
    Trong hồn người có ngọn sóng nào không

    Nếu Tổ quốc nhìn từ bao quần đảo
    Lạc Long cha nay chưa thấy trở về
    Lời cha dặn phải giữ từng thước đất
    Máu xương này con cháu vẫn nhớ ghi

    Nguyễn Việt Chiến không huyền thoại hóa nhân vật lịch sử mà mời gọi người đọc sờ tay vào các địa danh thân thương đầy bão tố. Ở đó, Nguyễn Việt Chiến nhận ra nhiều đau đớn vẫn còn trên quê hương anh.

    Đêm trằn trọc nỗi mưa nguồn chớp bể
    Thương Lý Sơn đảo khuất giữa mây mù
    Thương Cồn Cỏ gối đầu lên sóng dữ
    Thương Hòn Mê bão tố phía âm u

    Nếu Tổ quốc nhìn từ bao thương tích
    Những đau thương trận mạc đã qua rồi
    Bao dáng núi còn mang hình goá phụ
    Vọng phu buồn vẫn dỗ trẻ, ru nôi


    Và Nguyễn Việt Chiến cũng như hàng triệu người khác, cứ mỗi lần giặc tới là anh lại đếm. Cử chỉ đếm ở đây chỉ có thể giải thích như một sự kiên nhẫn vô giới hạn. Như một thước đo căm phẫn ngày một dài ra, và cuối cùng thì Tổ Quốc hôm nay đang trập trung về biển.


    Nếu Tổ quốc nhìn từ bao hiểm hoạ
    Đã mười lần giặc đến tự biển Đông
    Những ngọn sóng hoá Bạch Đằng cảm tử
    Lũ Thoát Hoan bạc tóc khiếp trống đồng

    Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo
    Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn chập chờn
    Máu đã đổ ở Trường Sa ngày ấy
    Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân

    Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả
    Những chàng trai ra đảo đã quên mình
    Một sắc chỉ về Hoàng Sa thủa trước*
    Còn truyền đời con cháu mãi đinh ninh

    Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát
    Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời
    Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất
    Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi

    Gần Lắm Trường Sa
    Khác với những nhà thơ nam, trong bài thơ “Gần Lắm Trường Sa” Lê Thị Kim bộc lộ tâm tình với biển một cách nhẹ nhàng hơn, chị kể về tình yêu, về đảo xa, về những lần thăm đảo trong trí tưởng tượng, chị viết:


    Đồng bào tập trung xin nón, áo "Hoàng Sa, Trường Sa, Việt Nam. Hình do thính giả gửi RFA
    Hỡi quần đảo cuối trời xanh
    Như trăm hạt thóc vãi thành đảo con
    Sóng bào mãi vẫn không mòn
    Vẫn còn biển cả vẫn còn Trường Sa

    Lời anh kể dẫn tôi ra
    Bước lên ghềnh đá chim sa xuống đầu
    Những loài chim biển hải âu
    Tưởng người là loại chim đâu mới về

    Sóng ù đặc cả tai nghe
    Gió thường là trận bão ghê tốc nhà
    Gặp hầm hào ở Trường Sa
    Những người lính trẻ vừa xa đất liền

    Lê Thị Kim lặng lẽ ngồi nghe anh kể, hòa với muối biển với sóng to, chị cảm nhận được niềm trân quý đảo của những người lính như thế nào.Trường Sa vẫn nằm ngoài kia trong tâm tưởng chị. Nó đã hòa vào tình yêu riêng tư của hai người và thật khó mà biết được bây giờ chị yêu đảo hay yêu anh, bởi lời lẽ trong bài thơ chỉ nhắc đến đảo, nhắc một cách trìu mến thân quen.

    Anh ngồi kể rất bình yên
    Mà sao sóng gió lại truyền sang tôi
    Mà sao chùm đảo xa khơi
    Nở tung toé tựa sao trời vụt lên

    Nụ cười tôi giấc mơ đêm
    Với quần đảo ấy đã liên quan nhiều
    Những người lính đảo tiền tiêu
    Chiều nay tiếng biển có kêu đầy hầm

    Tay tôi tựa có ai cầm
    Thì ra một lá me nằm trong tay
    Sài Gòn cây sóng đôi cây
    Trường Sa ngoài ấy người hay nhớ nhà

    Nơi nào cũng đất ông cha
    Sá chi sóng lạ là đà cơn say
    Hỡi chùm đảo cuối chân mây
    Đâu như chùm trái trên cây mà nhìn

    Ở nơi sừng sững niềm tin
    Hỡi quần đảo của bốn nghìn năm qua
    Tấm lòng theo mũi tàu ra
    Với tôi quần đảo Trường Sa rất gần

    Không những thơ xuất hiện trên internet còn có vô số các nhạc phẩm post lên ấy như một đóng góp với Hoàng Sa Trường Sa. Nhà thơ Trịnh Sơn có bài thơ được phổ nhạc mang tên “Tiếng Nói Thế Hệ Trẻ”; nhạc phẩm này phần nào đã nói lên được nỗi phấn khích của người trẻ hôm nay trước mất mát của dân tộc. Tác phẩm được Tâm Thư trình bày…




    Posted by RFA on August 28, 2010 at 21:16:26:


    [Tintuc-hoangsatruongsa]